Yardage book hay sách đọc sân golf được ví như bạn đồng hành đắc lực không thể thiếu của các golfer khi tham gia giải đấu, nhất là ở cấp độ nhà nghề.
Lịch sử phát triển thú vị của quả bóng golf ít ai biết
PGA Championship khép lại hôm 20/5 là major đầu tiên cho phép golfer dùng máy đo khoảng cách ở cả vòng đấu chính, thay vì chỉ được sử dụng yardage book. Dù vậy trong suốt tuần đấu trên sân Ocean tại Kiawah Island, nhiều đấu thủ và caddie vẫn tin chọn “cẩm nang sân”, tài liệu quen thuộc bấy lâu vẫn đồng hành ở đấu trường chính.
Khái niệm yardage book
Yardage book là thuật ngữ trong golf chỉ cuốn sổ tay/sách nhỏ, kích thước thường có thể bỏ túi, mô phỏng toàn bộ địa hình của mỗi hố, bao gồm thông số chi tiết độ dài, điểm đánh dấu và quãng đường đến các chướng ngại, bẫy, thay đổi độ dốc địa hình, hướng đổ bề mặt green,…
Đúng như tên gọi, mục đích chính của yardage book là cung cấp cho golfer và trợ lý thực chiến những thông tin về khoảng cách chung hoặc từ vị trí bóng nằm tới điểm mục tiêu. Từ đó trở thành căn cứ giúp người chơi đánh giá địa hình, tính toán đường bóng đi, tránh bẫy, lựa chọn gậy và lên chiến thuật thi đấu phù hợp.
Bên cạnh những cuốn cẩm nang cơ bản, với các bản vẽ đen trắng thì có một số yardage book được thiết kế khá độc đáo, in trên chất liệu giấy bóng, độ bền cao kèm hình ảnh minh họa nhiều màu.
Yardage book ra đời như thế nào?
Cha đẻ của sách đọc sân golf là Deane Beman, golfer từng một kỳ vô địch Bristish Amateur và hai lần ở U.S Amateur. Giai đoạn đấu chuyên nghiệp từ 1969 đến 1973, golf thủ sinh năm 1938 đoạt bốn cúp PGA Tour. Năm 1974, ông đảm nhiệm ghế đặc phái viên hệ thống giải Mỹ rồi khởi xướng kỳ đầu The Players Championship, giải ví như major thứ năm của làng golf. Beman cũng là người lên kế hoạch biến khu đầm lầy rậm rạp ở Florida thành chiến địa khét tiếng thường niên của The Players – sân Stadium thuộc tổ hợp TPC Sawgrass.
Bắt đầu từ năm 1954, khi còn là một học sinh, Beman đã đi bộ trên sân, đo và ghi lại theo phương pháp nhất quán những chỉ số khoảng cách quan trọng trên các sân golf mà ông chơi.
“Tôi ghi chú những điều đó vào scorcard. Dù nó đơn giản nhưng khá hiệu quả. Công việc này khó hơn một chút vào thời điểm đó vì mỗi sân có hệ thống tưới nước một hàng nên không có nhiều vòi phun nước để ước chừng như ngày nay. Tôi dùng cây cối, bunker và những thứ tương tự làm mốc. Một sân championship thường có một bunker gần green và tôi có thể tận dụng thành phía trước hoặc phía sau bẫy làm điểm đánh dấu phía trước khu vực gạt bóng. Kế đến, tôi sẽ đo bề mặt green”, Beman thuật lại.
Trong quãng là golfer nghiệp dư, Beman nhiều lần chơi với Jack Nicklaus. “Anh ấy cười mỗi khi tôi rút phiếu ghi của mình ra nhưng sau đó bắt đầu thích ý tưởng này. Lần đầu Jack làm điều tương tự ở Pebble Beach, với US Amateur 1961”, cựu đặc phái viên PGA Tour tiếp tục câu chuyện yardage book thưở sơ khai.
Ý tưởng của Beman ban đầu bị golf thủ ở mọi cấp độ ngờ vực về tính khả thi. Mãi cho đến những năm 1970, thuật ngữ yardage book dần chính danh và được nhiều golfer chuyên nghiệp sử dụng. George Lucas và Mark Long là hai người tiên phong trong lĩnh vực mô phỏng chi tiết sân và đạt bước tiến mới khi bán yardage book cho nhân sự đấu giải nhà nghề trong lúc di chuyển từ thành phố này qua thành phố khác.
Yardage book ngày nay có trở nên lỗi thời?
Với sự ra đời của công nghệ, đặc biệt là thiết bị GPS cho sân golf góp phần làm cho yardage book trở thành một món đồ của thế kỷ 20. Dù vậy, như đã nói ở phần đầu, trong các giải đấu quy định không được dùng máy đo khoảng cách GPS, chẳng hạn như PGA Tour, những cuốn cẩm nang bỏ túi này luôn là một vận dụng cần có với golfer chuyên nghiệp lẫn caddie. Hay ngay cả khi BTC nới quyền như quyết định của Hiệp hội golf nhà nghề Mỹ (PGAA) với ba major thuộc sở hữu, yardage book vẫn là lựa chọn hàng đầu trên sân.
Còn trong cấp độ phong trào và giải trí, vì đa số sân golf không cung cấp yardage book và luật golf từ 2006 cho phép dùng thiết bị đo khoảng cách (trừ khi BTC thông báo thêm trong luật đấu riêng) nên người chơi hiếm khi sử dụng yardage book. Tuy nhiên, những cuốn sách đọc sân này khó có thể bị lu mờ và mất giá trị với golfer theo đuổi golf nghiêm túc và thành viên ở các hệ thống giải.